Phát thải nông nghiệp là lượng khí nhà kính và chất gây ô nhiễm được tạo ra từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Nói cách khác, đây là những chất thải (dạng khí hoặc dạng khác) thoát ra môi trường trong quá trình canh tác, chăn nuôi và quản lý đất đai.
Theo số liệu kiểm kê khí nhà kính năm 2020 do Viện Môi trường Nông nghiệp tính toán, tổng phát thải khí nhà kính của Việt Nam hiện đạt khoảng 454,6 triệu tấn CO₂ tương đương, gần gấp đôi so với năm 2010. Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp đóng góp khoảng 116,51 triệu tấn, riêng trồng trọt chiếm tới 80% tổng phát thải của toàn ngành.
Phát thải chủ yếu đến từ khí mê tan phát sinh trong canh tác lúa nước do tập quán ngập nước liên tục, cùng với việc sử dụng phân bón chưa hiệu quả và thiếu giải pháp xử lý rơm rạ sau thu hoạch.
Dự báo đến năm 2030, tổng phát thải quốc gia có thể tăng lên gần 990,15 triệu tấn CO₂ tương đương nếu không có các biện pháp can thiệp hiệu quả.

Các nguồn phát thải
Các nguồn phát thải chính trong ngành nông nghiệp Việt Nam và tỉ lệ đóng góp:
– Trồng lúa: chiếm khoảng 48% phát thải của ngành nông nghiệp. Việc canh tác lúa nước ngập liên tục là một nguồn lớn phát thải CH₄.
– Chăn nuôi: chiếm khoảng 15,3% phát thải trong nông nghiệp. Trong đó có khí từ lên men đường ruột (rumen), khí từ chất thải động vật như phân.
– Sử dụng phân bón & quản lý đất: cũng là một phần đáng kể (bao gồm N₂O từ phân hóa học, phân hữu cơ, quản lý đất). Mức đóng góp khoảng ~ 13% trong cơ cấu phát thải nông nghiệp từ phân bón và sử dụng đất.
Cụ thể như sau:
– Khí metan (CH₄): sinh ra từ hoạt động lên men dạ cỏ của gia súc (bò, trâu) và từ ruộng lúa ngập nước.
– Khí nitơ oxit (N₂O): phát sinh khi bón phân hóa học, phân chuồng hoặc do phân giải chất hữu cơ trong đất.
– Khí CO₂: thải ra từ việc sử dụng nhiên liệu trong máy móc nông nghiệp, sản xuất phân bón, đốt rơm rạ, làm đất…
– Nước và đất bị ô nhiễm: do dư thừa phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất thải chăn nuôi.
Giải pháp giảm phát thải
Để giảm phát thải nông nghiệp, nhiều giải pháp đã và đang được áp dụng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin nói đến phát thải trong ngành trồng trọt như sau:
– Canh tác lúa ít phát thải: áp dụng kỹ thuật tưới ngập – khô xen kẽ thay cho ngập nước liên tục, giúp giảm phát thải khí metan.
– Bón phân hợp lý (4 đúng): đúng loại – đúng liều lượng – đúng thời điểm – đúng cách để hạn chế khí N₂O và rửa trôi gây ô nhiễm.
– Sử dụng phân bón hữu cơ, vi sinh: cải tạo đất, giảm phụ thuộc vào phân hóa học.
– Tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp: rơm rạ, thân lá được ủ làm phân hữu cơ hoặc trồng nấm thay vì đốt ngoài đồng.
– Về công nghệ và chính sách:
– Ứng dụng cơ giới hóa – số hóa nông nghiệp: tiết kiệm nhiên liệu, giảm khí CO₂.
– Khuyến khích nông nghiệp hữu cơ và tuần hoàn: hỗ trợ tín dụng xanh, thị trường tiêu thụ.
– Tăng cường kiểm soát, giám sát phát thải: hướng tới chứng chỉ “nông sản xanh, carbon thấp” để nâng giá trị xuất khẩu.
Vì vậy, giải pháp cho phát thải nông nghiệp là thay đổi tập quán sản xuất theo hướng xanh – tuần hoàn – thông minh, vừa giảm ô nhiễm vừa tăng hiệu quả kinh tế.
Việc áp dụng các giải pháp canh tác phát thải thấp cũng giúp cải thiện độ phì nhiêu của đất, bảo vệ tài nguyên, kiểm soát ô nhiễm từ đốt phụ phẩm nông nghiệp, góp phần củng cố sinh kế bền vững cho người dân nông thôn. Ngoài ra, sản xuất nông sản theo hướng thân thiện môi trường, có truy xuất nguồn gốc carbon và đạt chứng nhận phát thải thấp cũng sẽ mở ra cơ hội tiếp cận các thị trường xuất khẩu cao cấp như EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ.
-Tonghop-
